Bạn có biết về rối loạn lưỡng cực?

Rối loạn lưỡng cực là một rối loạn não bộ, tạo ra những thay đổi trong cảm xúc, mức năng lượng và chức năng của một người. Người có rối...
28 Tháng Mười Hai, 2024 - vientamlyhoc

Rối loạn lưỡng cực là một rối loạn não bộ, tạo ra những thay đổi trong cảm xúc, mức năng lượng và chức năng của một người. Người có rối loạn lưỡng cực thường trải qua những trạng thái cảm xúc mãnh liệt, xuất hiện trong thời gian từ vài ngày đến một tuần – còn gọi là pha tâm trạng. Những pha này được phân loại là hưng cảm/hưng cảm nhẹ (tâm trạng vui vẻ hoặc cáu kỉnh bất thường) hoặc trầm cảm (tâm trạng buồn). Ngoài ra, người có rối loạn lưỡng cực cũng có những giai đoạn tâm trạng trung tính. Khi được điều trị đúng cách thì bệnh nhân có thể có một cuộc sống đầy đủ và hiệu quả.

Những người có rối loạn lưỡng cực cũng trải qua sự thay đổi tâm trạng. Quá trình thay đổi này thường chỉ kéo dài vài giờ thay vì vài ngày. Những thay đổi này thường không đi kèm với các thay đổi về hành vi một cách cực độ hoặc gặp khó khăn với hoạt động thường ngày, tương tác xã hội. Rối loạn lưỡng cực có thể gây ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa cá nhân với người thân và gây khó khăn trong công việc hoặc học tập.

Rối loạn lưỡng cực có 3 chẩn đoán nhỏ bao gồm: lưỡng cực I, lưỡng cực II và rối loạn khí sắc chu kỳ.

Rối loạn lưỡng cực thường xảy ra trong gia đình: 80-90% các cá nhân rối loạn lưỡng cực có một người thân mắc rối loạn lưỡng cực hoặc trầm cảm. Những yếu tố môi trường như: căng thẳng, mất ngủ, ma túy, đồ uống cồn có thể kích hoạt các pha tâm trạng ở những người có tính dễ tổn thương. Mặc dù chưa có nguyên nhân rõ ràng về yếu tố thần kinh gây ra rối loạn lưỡng cực nhưng sự mất bằng của các chất dẫn truyền thần kinh được cho là sẽ dẫn đến rối loạn điều hòa chức năng não bộ. Tuổi khởi phát trung bình của rối loạn này là 25 tuổi.

Người được chẩn đoán rối loạn lưỡng cực I thường có những rối loạn tâm thần khác như rối loạn lo âu, rối loạn sử dụng chất, rối loạn tăng động – giảm chú ý (ADHD). Nguy cơ tự sát ở người có rối loạn lưỡng cực I cao hơn khá nhiều so với trung bình dân số.

 

RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC I

Rối loạn lưỡng cực I được chẩn đoán khi một người trải qua một giai đoạn phấn khích. Trong giai đoạn phấn khích thì người rối loạn lưỡng cực I có rất nhiều năng lượng và cảm thấy mình như đang ở trên đỉnh thế giới hoặc tâm trạng dễ cáu kỉnh khó chịu. Một vài người rối loạn lưỡng cực I cũng có pha hưng cảm nhẹ hoặc trầm cảm và những giai đoạn tâm trạng trung tính.

Triệu chứng của Rối loạn lưỡng cực I

1. Pha hưng cảm

Pha hưng cảm là một giai đoạn kéo dài ít nhất 1 tuần khi cá nhân thấy tinh thần cực kì cao hoặc khó chịu hầu hết thời gian trong hầu hết các ngày, có nhiều năng lượng hơn bình thường và có ít nhất 3 trong số những thay đổi hành vi dưới đây:

  • Giảm nhu cầu ngủ (vd: cảm thấy tràn đầy năng lượng dù ngủ ít hơn so với bình thường)
  • Nói nhiều hơn hoặc nhanh hơn
  • Khó kiểm soát suy nghĩ hoặc nhanh chóng thay đổi ý tưởng, chủ đề khi nói
  • Dễ bị phân tâm
  • Gia tăng hoạt động (vd: bồn chồn, làm nhiều việc cùng lúc)
  • Gia tăng các hành vi nguy hiểm (vd: lái xe liều lĩnh, chi tiêu hoang phí…)

Những hành vi này phải khác biệt so với cá nhân ở thời điểm bình thường và được nhận ra bởi bạn bè, gia đình. Triệu chứng phải trầm trọng tới mức ảnh hưởng chức năng cá nhân trong công việc, gia đình, hoạt động xã hội hoặc trách nhiệm. Người có triệu chứng của một pha hưng cảm thường cần chăm sóc tại bệnh viện để đảm bảo an toàn. 

Một vài người trong pha hưng cảm có thể có suy nghĩ hỗn loạn, niềm tin sai lầm, ảo giác – đặc điểm tâm thần.

2. Pha hưng cảm nhẹ

Pha hưng cảm nhẹ được đặc trưng bởi các triệu chứng kích động nhẹ hơn, kéo dài 4 ngày liên tiếp thay vì một tuần. Các triệu chứng hưng cảm nhẹ không gây ảnh hưởng quá nhiều tới chức năng cá nhân như pha hưng cảm.

3. Pha trầm cảm chủ yếu

Pha trầm cảm chủ yếu là giai đoạn kéo dài ít nhất 2 tuần, cá nhân có ít nhất 5 trong số các triệu chứng dưới đây (có ít nhất 1 trong 2 triệu chứng đầu tiên)

  • Nỗi buồn mãnh liệt, khí sắc giảm
  • Suy giảm hứng thú với các hoạt động yêu thích
  • Cảm giác vô giá trị hoặc tội lỗi
  • Mệt mỏi
  • Ngủ ít hoặc nhiều hơn
  • Tăng hoặc giảm sự thèm ăn
  • Bồn chồn hoặc nói, cử động chậm lại
  • Khó tập trung
  • Suy nghĩ thường xuyên về cái chết hoặc tự sát

 

ĐIỀU TRỊ VÀ THEO DÕI

Các triệu chứng rối loạn lưỡng cực thường sẽ được cải thiện trong quá trình điều trị. Sử dụng thuốc là nền tảng của điều trị rối loạn lưỡng cực và trị liệu trò chuyện (trị liệu tâm lý) có thể giúp rất nhiều bệnh nhân hiểu hơn về bệnh tình, tuân thủ theo đơn thuốc và phòng tránh các pha tâm trạng trong tương lai.

Những thuốc an thần (vd: lithium) thường được sử dụng nhiều nhất khi điều trị rối loạn lưỡng cực. Những thuốc này giúp điều chỉnh sự mất cân bằng của tín hiệu não bộ. Bởi vì rối loạn lưỡng cực là một bệnh mãn tính – các pha tâm trạng thường tái diễn – nên việc trị liệu phòng tránh liên tục là rất cần thiết. Điều trị rối loạn lưỡng cực được cá nhân hóa: bệnh nhân có thể cần thử các loại thuốc khác nhau trước khi biết được loại nào hiệu quả với mình nhất.

Trong một vài trường hợp, khi thuốc và trị liệu tâm lý không hiệu quả thì phương pháp trị liệu bằng điện giật (ECT) có thể được sử dụng. ECT sử dụng nhiều dòng điện ngắn tác động vào da đầu bệnh nhân đang được gây mê dẫn đến co giật ngắn, khó kiểm soát. Cơn động kinh này khiến thay đổi đường truyền tín hiệu của não.

Vì rối loạn lưỡng cực có thể gây ra sự gián đoạn nghiêm trọng trong cuộc sống hàng ngày của một người và gây ra căng thẳng trong gia đình nên người thân có thể cần sự hỗ trợ chuyên môn, đặc biệt là các nhóm hỗ trợ và vận động sức khỏe tâm thần. Từ những nguồn lực này thì gia đình có thể tìm hiểu chiến lược đối phó, tham gia tích cực vào việc điều trị và có được sự hỗ trợ phù hợp

 

RỐI LOẠN LƯỠNG CỰC II

Chẩn đoán rối loạn lưỡng cực II yêu cầu một người có ít nhất một pha trầm cảm chủ yếu và ít nhất 1 pha hưng cảm nhẹ (xem phía trên). Giữa các pha thì chức năng cá nhân của của họ trở lại bình thường. Người có rối loạn lưỡng cực II thường tìm kiếm điều trị lần đầu do ảnh hưởng từ pha trầm cảm vì pha hưng cảm nhẹ thường khá dễ chịu, thậm chí tăng hiệu quả học tập hoặc làm việc.

Những người rối loạn lưỡng cực II thường có những rối loạn tâm thần khác như rối loạn lo âu, rối loạn sử dụng chất – dẫn đến các triệu chứng trầm cảm hoặc hưng cảm nhẹ trầm trọng hơn.

Điều trị

Điều trị cho rối loạn lưỡng cực II khá giống với lưỡng cực I: sử dụng thuốc và trị liệu tâm lý. Thuốc thường được sử dụng nhất là thuốc an thần và thuốc chống trầm cảm, tùy vào triệu chứng cụ thể. Nếu triệu chứng trầm cảm nặng và thuốc không có tác dụng thì có thể sử dụng ECT (xem ở trên). Quá trình điều trị cho mỗi cá nhân là khác nhau.

 

RỐI LOẠN KHÍ SẮC CHU KỲ

Rối loạn khí sắc chu kì là một dạng rối loạn lưỡng cực nhẹ hơn, liên quan nhiều đến sự “thay đổi tâm trạng” khi mà triệu chứng hưng cảm nhẹ và trầm cảm xảy ra thường xuyên. Những người có rối loạn khí sắc chu kỳ có tâm trạng lên và xuống nhẹ hơn so với rối loạn lưỡng cực I và II.

Triệu chứng của rối loạn khí sắc chu kỳ bao gồm:

  • Có nhiều giai đoạn thể hiện pha hưng cảm nhẹ và trầm cảm trong ít nhất 2 năm nhưng triệu chứng không đủ để chẩn đoán hưng cảm nhẹ hoặc trầm cảm.
  • Trong 2 năm thì các triệu chứng (sự thay đổi tâm trạng) chiếm ít nhất một nửa thời gian và không bao giờ biến mất quá 2 tháng.

Điều trị

Điều trị cho rối loạn khí sắc chu kỳ có thể bao gồm sử dụng thuốc và trị liệu trò chuyện. Với rất nhiều người thì trị liệu trò chuyện có thể hỗ trợ quản lý căng thẳng khi tâm trạng thay đổi. Viết nhật ký tâm trạng cũng là một cách hiệu quả để theo dõi các biến động của tâm trạng. Những người rối loạn khí sắc chu kỳ có thể cần nhiều thời gian hơn từ khi bắt đầu tới lúc ngừng điều trị.

Tin tức và sự kiện

Các bài viết liên quan khác